
Dưới sự bảo trợ của Ủy ban Đối ngoại của Hiệp hội Hạt nhân Mỹ (ANS), một nhóm chuyên gia từ các lĩnh vực khác nhau của ngành công nghệ hạt nhân Mỹ đã được tập hợp lại để đánh giá các đề xuất cụ thể trong các Sắc lệnh Hành pháp (EOs). Mục đích là để so sánh các EOs với các Tuyên bố Quan điểm hiện có đã được Hội đồng ANS phê duyệt và đưa ra ý kiến đóng góp mang tính xây dựng cho việc triển khai sau này của chính quyền Trump. Kết quả đánh giá và các ý kiến phản hồi của nhóm được Giám đốc điều hành ANS Craig Piercy gửi đến Chủ tịch ANS Lisa Marshall và Hội đồng Quản trị, được liệt kê dưới đây theo từng Sắc lệnh Hành pháp (EO).
1. Tái sinh Nền tảng Công nghiệp Hạt nhân
Nhìn chung, Nhóm Chuyên gia Tư vấn ANS đánh giá cao phương pháp tiếp cận toàn diện của chính phủ trong việc thúc đẩy triển khai năng lượng hạt nhân, đổi mới, phát triển nguồn nhân lực và chuỗi cung ứng. Đặc biệt, Mục 3, “Tăng cường Chu trình Nhiên liệu Hạt nhân Trong nước,” đã chính thức đưa việc tái chế nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng trở thành chính sách của chính phủ Mỹ. Hành động này hoàn toàn phù hợp với Tuyên bố Quan điểm số 3 của ANS [1], vốn từ lâu đã kêu gọi một “chính sách năng lượng rõ ràng về tái chế nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng”.
Nhóm chuyên gia cũng hoan nghênh chỉ thị về việc lập một báo cáo với đề xuất chính sách quốc gia “nhằm hỗ trợ quản lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng và chất thải phóng xạ hoạt độ cao, cũng như phát triển và triển khai năng lực về chu trình nhiên liệu tiên tiến để thiết lập một chu trình nhiên liệu dài hạn một cách an toàn, an ninh và bền vững,” trong đó xác định các thay đổi luật pháp cần thiết để đạt được chính sách này.
Khoản 3 của sắc lệnh này cũng chỉ thị dừng chương trình pha loãng và loại bỏ lượng plutonium dư thừa của Bộ Năng lượng và thay vào đó chỉ đạo Bộ trưởng Năng lượng cung cấp vật liệu dư thừa, “sẵn có cho ngành công nghiệp dưới dạng có thể được sử dụng để chế tạo nhiên liệu cho các công nghệ hạt nhân tiên tiến.” Điều này cũng phù hợp chung với Tuyên bố Quan điểm số 47 của ANS [2]. Tuy nhiên, một số thành viên của Nhóm Chuyên gia Tư vấn đã khuyến nghị Bộ Năng lượng rằng, để duy trì các biện pháp bảo vệ hiệu quả và có trách nhiệm giải trình đối với vật liệu hoạt độ cao, nên tập trung vào việc cung cấp vật liệu dư thừa cho các lò phản ứng dự kiến được triển khai tại các phòng thí nghiệm quốc gia và các cơ sở chính phủ khác thay vì cung cấp rộng rãi cho ngành công nghiệp.
Nhóm Chuyên gia Tư vấn cũng hoan nghênh Khoản 4 của Sắc lệnh Hành pháp này, “Tài trợ cho việc khởi động lại, hoàn thành, nâng cấp, hoặc xây dựng các nhà máy hạt nhân,” trong đó chỉ đạo Văn phòng Chương trình Cho vay (LPO) của Bộ Năng lượng ưu tiên các hoạt động hỗ trợ xây dựng nhà máy hạt nhân mới, nâng cấp các nhà máy hiện có và củng cố chuỗi cung ứng của Mỹ. Mặc dù một số thành viên trong nhóm nhận thấy các thời hạn trong khoản này mang tính tham vọng cao, nhưng với mục tiêu tăng công suất 5 GW và xây dựng thêm 10 lò phản ứng mới cỡ lớn với thiết kế hoàn chỉnh vào năm 2030 vẫn là một mục tiêu đáng khen ngợi. Tuy nhiên, các thành viên nhóm lưu ý rằng thành công trong việc đạt được cột mốc này cuối cùng sẽ phụ thuộc vào việc Quốc hội có duy trì các khoản tín dụng thuế sản xuất 45Y và đầu tư 48E hiện tại cho năng lượng hạt nhân hay không. Việc duy trì khoản trợ cấp tín dụng của LPO, mặc dù không bắt buộc để LPO hoạt động, cũng sẽ cần thiết để hỗ trợ mục tiêu này.
Ngược lại, bối cảnh chính sách trước các Sắc lệnh Hành pháp (EOs) và cuộc thảo luận hòa giải hiện tại (tức là các khoản tín dụng thuế 45Y/48E và LPO) là không đủ để thúc đẩy việc triển khai các dự án bổ sung, bằng chứng là các cuộc thảo luận xoay quanh việc giảm thiểu rủi ro cho các dự án “đầu tiên” và tình trạng vượt chi phí. Do đó, ngay cả khi kết quả của dự luật hòa giải về cơ bản là duy trì nguyên trạng môi trường chính sách, mục tiêu này khó có thể đạt được nếu không có sự hỗ trợ chính sách bổ sung.
Nhóm Chuyên gia Tư vấn hoàn toàn ủng hộ các hành động được nêu trong Khoản 5, “Mở rộng Lực lượng Lao động Năng lượng Hạt nhân.” Các thành viên trong nhóm đồng ý rằng “ngành kỹ thuật hạt nhân và các ngành nghề, cũng như các lộ trình giáo dục hỗ trợ ngành năng lượng hạt nhân, sẽ được coi là lĩnh vực trọng tâm và ưu tiên hàng đầu.” Họ cũng nhấn mạnh rằng, mặc dù các ngành nghề kỹ năng chắc chắn sẽ chiếm phần lớn số lượng nhân sự mới gia nhập lực lượng lao động, nhưng vẫn có nhu cầu cấp bách về các vị trí chuyên môn cao hơn trong các lĩnh vực như vật lý sức khỏe, hóa học hạt nhân và hóa phóng xạ, an toàn tới hạn, và nhiều lĩnh vực khác.
Nhóm cũng nhấn mạnh nghiên cứu thực hiện bởi các nhà nghiên cứu tại các trường đại học là những động lực quan trọng thiết yếu của đổi mới hạt nhân ở Mỹ và rất quan trọng để duy trì khả năng cạnh tranh quốc gia. Như đã nêu trong Tuyên bố Quan điểm số 85 của ANS [3], đầu tư bền vững vào phát triển lực lượng lao động trên toàn bộ chuỗi cung ứng là điều cần thiết – không chỉ để duy trì vai trò dẫn đầu của Mỹ trong khoa học và kỹ thuật hạt nhân mà còn để đảm bảo một nguồn dồi dào nhân lực tài năng có khả năng đáp ứng nhu cầu tương lai của ngành.
2. Triển khai Công nghệ Lò phản ứng Hạt nhân Tiên tiến vì An ninh Quốc gia
Nhóm Chuyên gia Tư vấn ủng hộ mục tiêu tổng thể của Tổng thống về việc “đảm bảo phát triển, triển khai và sử dụng nhanh chóng các công nghệ hạt nhân tiên tiến để hỗ trợ các mục tiêu an ninh quốc gia.” Điều này bao gồm việc thiết lập một “chương trình được phê duyệt và cấp ngân sách” trong Lục quân Mỹ để sử dụng năng lượng hạt nhân và chỉ định các địa điểm thuộc sở hữu hoặc kiểm soát của Bộ Năng lượng cho mục đích cung cấp năng lượng cho cơ sở hạ tầng AI phục vụ nhu cầu quốc phòng.
Nhóm chuyên gia cũng ghi nhận và tán thành chỉ đạo của Sắc lệnh Hành pháp yêu cầu Bộ trưởng Năng lượng “giải phóng vào kho nhiên liệu sẵn có không dưới 20 tấn uranium làm giàu thấp có nồng độ cao (HALEU) cho bất kỳ dự án nào từ khu vực tư nhân nhận được giấy phép xây dựng và vận hành tại một địa điểm thuộc sở hữu hoặc kiểm soát của Bộ Năng lượng và được Bộ Năng lượng quản lý với mục đích cung cấp năng lượng cho hạ tầng AI và các hạ tầng khác.
Đối với các điều tại Khoản 5 liên quan đến quyền hạn của Bộ Quốc phòng trong việc quản lý thiết kế, xây dựng và vận hành các lò phản ứng và các cơ sở chu trình nhiên liệu, nhóm đã có một số ý kiến đóng góp quan trọng nhưng đã chọn đưa vào phần phản hồi của họ đối với Sắc lệnh Hành pháp “Cải cách Thử nghiệm Lò phản ứng Hạt nhân tại Bộ Năng lượng”, có thể tìm thấy ở phần dưới đây.
Cuối cùng, Nhóm Chuyên gia Tư vấn đã ca ngợi ý định được thể hiện trong Mục 8, “Thúc đẩy Xuất khẩu Hạt nhân của Mỹ,” nhằm “tích cực theo đuổi” các thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự song phương mới và được gia hạn, thường được gọi là Hiệp định 123. Tuy nhiên, việc đặt mục tiêu đạt được 20 Hiệp định 123 mới vào cuối năm 2028 là đáng khen ngợi, nhưng điều cốt yếu là Bộ Ngoại giao và Bộ Năng lượng phải được trang bị đầy đủ nhân sự giàu kinh nghiệm chuyên trách đàm phán những hiệp định này
3. Cải cách Thử nghiệm Lò phản ứng Hạt nhân tại Bộ Năng lượng
Sắc lệnh hành pháp này chủ yếu đề cập đến việc sử dụng các quyền hạn được trao cho Bộ Năng lượng (DOE) trong Đạo luật Năng lượng Nguyên tử để quản lý và triển khai các lò phản ứng thử nghiệm, cả bên trong và bên ngoài hệ thống Phòng thí nghiệm Quốc gia.
Các Tuyên bố Quan điểm hiện có của ANS không đưa ra bất kỳ tuyên bố trực tiếp nào về tính hợp lý của việc Bộ Năng lượng (hoặc Bộ Quốc phòng) được cấp phép, giám sát và kiểm tra các cơ sở không phải là lò phản ứng nghiên cứu hoặc thử nghiệm quy mô nhỏ. Xem xét vấn đề này, Nhóm Chuyên gia Tư vấn mong muốn có sự làm rõ hơn về phạm vi và vai trò quyền hạn của Bộ Quốc phòng và Bộ Năng lượng trong việc quản lý các lò phản ứng.
Bộ Quốc phòng (DOD)/Bộ Năng lượng (DOE) có thể đóng một vai trò mang tính xây dựng trong việc thúc đẩy xây dựng các lò phản ứng tiên tiến, đã từng phê duyệt các thiết kế tương tự cho các cơ sở quân sự (dù việc này đã không được thực hiện trong thời gian gần đây) và đang tiếp tục công việc với các dự án như MARVEL, Project Pele, và các lò phản ứng được đề xuất tại bãi thử nghiệm DOME của Trung tâm Đổi mới Lò phản ứng Quốc gia (NRIC). Tuy nhiên, vẫn còn bỏ ngỏ câu hỏi liệu Bộ Quốc phòng (DOD) hay Bộ Năng lượng (DOE) có đủ khả năng hỗ trợ một danh mục dự án mở rộng đáng kể hay không, đặc biệt khi DOD thiếu kinh nghiệm cấp phép trong thời gian gần đây. Hơn nữa, chưa rõ liệu cả Bộ Quốc phòng và Bộ Năng lượng có đủ khung pháp lý và năng lực để hỗ trợ việc kiểm tra và giám sát các cơ sở muốn vận hành lâu dài hơn hay không.
Do đó, mọi nỗ lực của Bộ Quốc phòng (DOD) hoặc Bộ Năng lượng (DOE) cần được phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Pháp quy Hạt nhân Mỹ (NRC). Điều đó nói lên rằng, điều quan trọng là phải tránh các yêu cầu quy định trùng lặp, các tiêu chuẩn mâu thuẫn giữa các cơ quan, và một quy trình cấp phép nặng nề hoặc thậm chí các lo ngại pháp lý gây ra sự không chắc chắn cho các khoản đầu tư hạt nhân. Điều đó cho thấy quan trọng là phải tránh các yêu cầu quy định chồng chéo, những tiêu chuẩn mâu thuẫn giữa các cơ quan, cũng như một quy trình cấp phép rườm rà hay thậm chí là các lo ngại pháp lý gây ra sự không chắc chắn cho các khoản đầu tư hạt nhân.
Các thành viên Nhóm Chuyên gia Tư vấn đặt câu hỏi liệu các lộ trình này có được coi là cơ chế tùy chọn cho các ứng dụng chuyên biệt của DOE hoặc quốc phòng, hay là các lộ trình cấp phép song song và/hoặc bổ sung cho quy trình của NRC—đặc biệt là vì cả DOE lẫn DOD đều không có khả năng cấp phép cho các lò phản ứng phục vụ mục đích kép hoặc thương mại. Mặc dù có tiền lệ pháp lý cho các khuôn khổ quy định thay thế, nhưng cần phải làm rõ rằng bất kỳ lộ trình cấp phép nào của DOD hoặc DOE đều là tự nguyện, không bắt buộc. Các nhà phát triển không được đặt vào tình thế bị áp lực phải theo đuổi cấp phép của DOE hoặc DOD, chỉ để sau đó phát hiện ra rằng việc cấp phép của NRC cho các cơ sở thương mại của họ cũng là bắt buộc, dẫn đến sự chậm trễ hoặc các đánh giá trùng lặp. Hơn nữa, các tiêu chuẩn quy định của NRC đóng vai trò là nền tảng cho việc triển khai hạt nhân ở nước ngoài, và điều cần thiết là cơ quan này phải duy trì sự tham gia đầy đủ vào các quy trình thiết kế và phê duyệt lò phản ứng để duy trì vai trò dẫn đầu của Mỹ trong xuất khẩu hạt nhân dân sự.
Với những hạn chế về nhân sự hiện tại, việc triển khai thành công các quy trình cấp phép của Bộ Quốc phòng (DOD) và Bộ Năng lượng (DOE) có thể sẽ yêu cầu tận dụng chuyên môn kỹ thuật của Ủy ban Pháp Hạt nhân Mỹ (NRC) để hỗ trợ các hoạt động xem xét và giám sát cấp phép. Các nguồn lực bổ sung và việc chia sẻ thông tin có thể dẫn đến quy trình cấp phép và xem xét được rút ngắn.
Cuối cùng, việc thực hiện Sắc lệnh Hành pháp này nên mang lại một quy trình được cải thiện; nếu không, các nguồn lực của Bộ Năng lượng và Phòng thí nghiệm Quốc gia sẽ được sử dụng tốt hơn để trực tiếp hỗ trợ các công ty đang trong quá trình cấp phép của NRC.
4. Ra lệnh Cải cách Ủy ban Pháp quy Hạt nhân
Như đã nêu trong Tuyên bố Quan điểm số 51 của ANS[4], ANS từ lâu đã nhận thấy sự cần thiết của “các cơ quan quản lý an toàn có đủ nhân lực, được tài trợ đầy đủ, chịu trách nhiệm độc lập đảm bảo an toàn vận hành và bảo vệ môi trường bằng cách sử dụng các mục tiêu dựa trên hiệu suất và các phân tích rủi ro có được từ phân tích và kinh nghiệm” (nhấn mạnh thêm).
Nhóm Chuyên gia Tư vấn ủng hộ ý định của Sắc lệnh Hành pháp này nhằm hiện đại hóa các quy trình của NRC và điều chỉnh hành động quản lý theo khung thời gian mà thực tế hiện nay đòi hỏi, vì điều này liên quan đến Đạo luật Thúc đẩy Triển khai Năng lượng Hạt nhân Tiên tiến Đa dụng cho Năng lượng Sạch (ADVANCE). Tuyên bố Quan điểm số 46 của ANS [5] về quy định dựa trên rủi ro và hiệu suất công nhận rằng các quy trình của NRC có thể “cồng kềnh” và “mang tính quy định,” và rằng “việc thiếu ra quyết định tích hợp thường dẫn đến việc tập trung vào các mục tiêu riêng lẻ mà có thể không tối ưu hóa kết quả tổng thể.”
Tuy nhiên, các thành viên Nhóm Tư vấn Chuyên gia kêu gọi thận trọng trước việc thực hiện cắt giảm nhân sự một cách bừa bãi thông qua các quy trình giảm biên chế hiện có. Cách tiếp cận này có thể gây nguy hiểm cho các cam kết về thời gian của NRC đối với các đơn đăng ký hiện tại và tạo ra một môi trường “ngại làm” trong NRC—cũng như một môi trường không chắc chắn về quy định trong ngành công nghiệp hạt nhân. Chuyên môn kỹ thuật là yếu tố then chốt đằng sau những thành công về hạt nhân của NRC và Mỹ. Như một thành viên trong nhóm đã nói, “Bạn không thể làm một chiếc xe chạy nhanh hơn bằng cách trang bị cho nó một động cơ nhỏ hơn.”
Nhìn chung, nhóm bày tỏ sự ủng hộ đối với các cải cách NRC mà Quốc hội đã ban hành trong Đạo luật ADVANCE được thông qua gần đây, nhiều cải cách trong số đó được liệt kê trong các Sắc lệnh Hành pháp. Nhóm cũng đồng ý với chủ trương chung của Mục 3, “Cải cách văn hóa của NRC”. NRC đã hành động để đảm bảo cơ quan này xem xét cả lợi ích lẫn rủi ro trong các quyết định cấp phép và quy định mà họ đưa ra. Cuối cùng, việc thay đổi văn hóa nhân viên của NRC tốt nhất nên được thực hiện bởi một Ban Lãnh đạo Ủy ban năng động.
Việc cải cách không nên đánh đổi bằng việc làm chậm quá trình cấp phép hoặc làm suy yếu năng lực giám sát an toàn hiệu quả của cơ quan. Nó nên tập trung vào việc tăng cường năng lực—chứ không phải giảm nhân sự. Mục 5, “Cải cách và Hiện đại hóa các Quy định của NRC,” đề xuất “xem xét và sửa đổi toàn bộ các quy định và tài liệu hướng dẫn,” có khả năng không khả thi và phản tác dụng do yêu cầu về thời gian của nhân viên và sự không chắc chắn về quy định (hoặc thậm chí pháp lý) có thể xảy ra. Các thời hạn cấp phép cố định cũng có nguy cơ gây ra những hậu quả không mong muốn, như việc xem xét vội vàng hoặc từ chối thẳng thừng dựa trên các giới hạn thủ tục hơn là giá trị kỹ thuật. Việc kết hợp những điều này với bất kỳ sự cắt giảm nhân sự nào của NRC sẽ làm suy yếu nghiêm trọng hơn năng lực kỹ thuật của cơ quan, đặc biệt là trong số các nhân viên có kinh nghiệm về công nghệ lò phản ứng tiên tiến. NRC phải tránh làm quá tải lực lượng lao động của mình với các yêu cầu sửa đổi làm chệch hướng sự chú ý khỏi việc giám sát và phê duyệt lò phản ứng đang diễn ra.
Nhóm Chuyên gia Tư vấn đồng ý với nhu cầu “áp dụng các giới hạn bức xạ dựa trên khoa học” được nêu trong Mục 5. Nói một cách đơn giản, không có bằng chứng dịch tễ học nào cho thấy việc phơi nhiễm bức xạ ở mức hoặc gần mức nền gây ra rủi ro đáng kể cho công chúng. Tuy nhiên, một số người tham gia cảm thấy rằng việc NRC xem xét lại lý thuyết tuyến tính không ngưỡng (LNT) sẽ là một việc vô ích, vì hơn 70 năm nghiên cứu đã không đưa ra được mô hình đủ sức thuyết phục nào để đánh giá ảnh hưởng sức khỏe từ việc phơi nhiễm bức xạ ở mức mà các quy định hiện hành đang xem xét. Thay vì khơi lại một cuộc tranh luận khoa học cao siêu, nhóm tin rằng NRC và các cơ quan liên bang khác nên tập trung vào việc áp dụng nguyên tắc “càng thấp càng tốt một cách hợp lý” (ALARA) theo cách mà nó được dự định ban đầu. Cụ thể, ANS nêu rõ trong Tuyên bố Quan điểm số 41[6], “ALARA được dự định là một quy trình tối ưu hóa, trong đó chi phí liên quan đến bất kỳ việc giảm liều tiềm năng nào được cân bằng với lợi ích trong một quy trình ra quyết định dựa trên rủi ro có tính đến tất cả các yếu tố thích hợp. Thật không may, việc thực hiện ALARA hiện tại thường dẫn đến thực hành giảm thiểu liều hơn là tối ưu hóa dựa trên rủi ro, điều này có thể dẫn đến nhiều tác hại hơn là lợi ích.”
Cuối cùng, bất kỳ thay đổi nào đối với sự độc lập thực tế hoặc nhận thức của NRC sẽ làm suy yếu uy tín của quy trình quản lý và ngành công nghiệp, cả trong nước và quốc tế. Điều này bao gồm việc thiếu minh bạch trong các quy định, các cuộc bỏ phiếu của Ủy ban hoặc các phát hiện về an toàn.
Hàng thập kỷ kinh nghiệm vận hành tích lũy đã chứng minh rằng năng lượng hạt nhân là một nguồn năng lượng an toàn và đáng tin cậy. Các quyết định của NRC liên quan đến việc sử dụng năng lượng hạt nhân nên cân bằng hợp lý giữa rủi ro và lợi ích. NRC nên áp dụng một cách tiếp cận toàn diện trong việc quản lý, phù hợp với cách chúng ta xử lý rủi ro trên nhiều mối nguy hiểm khác nhau. Thật không may, Sắc lệnh Hành pháp này có thể làm suy yếu niềm tin và những cải tiến đang diễn ra đối với khung pháp lý của NRC. Việc thực hiện phải được cân nhắc kỹ lưỡng; nếu không, nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến các mục tiêu đã nêu của chính quyền Trump và ngành công nghiệp nhằm triển khai năng lượng hạt nhân mới.
Kết luận
Nhìn chung, Nhóm Chuyên gia Tư vấn của ANS nhận thấy các Sắc lệnh Hành pháp là một bước tiến đáng kể trong việc triển khai các lò phản ứng tiên tiến và ghi nhận cam kết chính sách đặc biệt của chính quyền Trump trong việc thúc đẩy phát triển công nghệ hạt nhân Mỹ. Nhóm cũng thừa nhận việc thực hiện các Sắc lệnh Hành pháp sẽ gặp thách thức do ngân sách eo hẹp và trong một số trường hợp có thể phải yêu cầu thay đổi pháp lý đối với Đạo luật Năng lượng Nguyên tử và Đạo luật Tái cấu trúc các Tổ chức Năng lượng. Trong trường hợp xấu nhất, một số điểm của các Sắc lệnh Hành pháp có thể gây ra tác dụng ngược.
Để triển khai thành công, Nhóm Chuyên gia Tư vấn nhất trí cần có chính sách cụ thể và định hướng rõ ràng được hỗ trợ bởi ngân sách liên bang, phối hợp liên ngành chặt chẽ, đầu tư bền vững vào nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, cùng với việc hiện đại hóa quy định dựa trên nền tảng nghiên cứu khoa học.
Tài liệu tham khảo
[1] ANS Position Statement #3, Management of the Nation’s Used Nuclear Fuel and High-Level Waste, June 2023.
[2] ANS Position Statement #47, Disposition of Surplus Weapons Plutonium, May 2021.
[3] ANS Position Statement #85, Education, Training, and Workforce Development for Nuclear Science, Engineering, and Technology, October 2024.
[4] ANS Position Statement #51, Safety of Nuclear Power, rev. October 2021.
[5] ANS Position Statement #46, Risk-Informed and Performance-Based Regulations for Nuclear Power Plants, February 2021.
[6] ANS Position Statement #41, Risks of Exposure to Low-Level Ionizing Radiation, November 2020.
Tổng hợp & Biên dịch: PGS.TS. Nguyễn Văn Thái
Nguồn: https://www.ans.org/